Tìm kiếm nhanh
 
Thông tin thời tiết
Ngành Nông nghiệp và Môi trường trước Sứ mệnh lịch sử
TIN TỨC - SỰ KIỆN
Bản in Lần xem : 19

Ngành Nông nghiệp và Môi trường trước Sứ mệnh lịch sử
Tin đăng ngày: 17/11/2025

Sứ mệnh lịch sử

Từ buổi bình minh của độc lập dân tộc đến hôm nay, nông nghiệp, nông dân và nông thôn Việt Nam luôn gánh vác sứ mệnh thiêng liêng: sản xuất lương thực, thực phẩm nuôi sống con người; là nguồn lực trọng yếu bảo đảm ổn định xã hội; là “trụ đỡ” của nền kinh tế. Cùng với đó, việc quản lý tài nguyên và môi trường luôn có sứ mệnh tạo nền tảng sinh thái cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Sau ngày Độc lập 2/9/1945, đất nước phải đối mặt với nạn đói khiến hơn 2 triệu đồng bào thiệt mạng. Trong hoàn cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào “Chống đói - Chống dốt - Chống ngoại xâm”, kêu gọi toàn dân tăng gia sản xuất. Người viết trong bài “Tăng gia sản xuất!” đăng trên Báo Cứu quốc số 65, ngày 28/11/1945: “Một hạt gạo là một hạt vàng. Ai có đất dùng đất, ai có sức dùng sức.” Và trong Thư gửi Hội nghị Nông dân toàn quốc năm 1955, Người khẳng định: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”.

Trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1975, mặc dù đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam vẫn đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp thống nhất và xây dựng đất nước. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, nông dân Việt Nam đã phát huy tinh thần tự lực, sáng tạo, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Các phong trào thi đua như “Tăng gia sản xuất”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” lan rộng khắp nơi, bảo đảm lương thực cho cả tiền tuyến và hậu phương. Nhiều địa phương đẩy mạnh khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích canh tác, áp dụng các biện pháp thủy lợi, cải tiến giống cây trồng, vật nuôi.

Ở miền Bắc, sau cải cách ruộng đất và hợp tác hóa nông nghiệp, sản xuất được tổ chức tập thể, năng suất lúa và hoa màu dần tăng lên, tạo cơ sở cho công cuộc xây dựng xã hội mới. Ở miền Nam, dù bị chiến tranh tàn phá, nông dân vẫn kiên cường bám đất, cung cấp lương thực và vật chất cho cách mạng.

Đồng thời ở miền Bắc, từ năm 1959, những người làm công tác đo đạc đã có mặt ở khắp nơi, từ ruộng đồng, sông suối đến vùng rừng xa xôi để xác định ranh giới, diện tích và vị trí đất đai, thực sự là những người “đặt tên cho đất”, giúp đất có tên, có chủ, có trật tự.

Từ những năm 1960, hàng loạt cuộc điều tra lớn về đất đai đã được triển khai, đặt nền móng cho thống kê đất đai, tạo thuận lợi cho nông nghiệp phát triển.

Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Nông dân Việt Nam đã phát huy tinh thần tự lực, sáng tạo, vừa sản xuất, vừa chiến đấu

Từ sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển trong điều kiện vô cùng khó khăn. Hậu quả chiến tranh nặng nề, thiên tai dồn dập, cơ sở hạ tầng yếu, cơ giới hóa thấp, vật tư khan hiếm, trong khi cơ chế quản lý còn nặng bao cấp. Mỗi năm, đất nước phải nhập khẩu trên một triệu tấn lương thực. Trong hoàn cảnh ấy, những cải cách mang tính đột phá mở đường cho đổi mới toàn diện như chính sách Khoán hộ hay Khoán 100 năm 1981, rồi Khoán 10 năm 1988 trao quyền tự chủ cho hộ nông dân, đưa hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế cơ bản trong sản xuất. Luật Đất đai năm 1993 khẳng định quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài, tạo bước ngoặt lịch sử cho nông nghiệp hàng hóa, giải phóng sức sản xuất, khơi thông nguồn lực xã hội. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc phạm vi quản lý của ngành như đất đai, nước, khoáng sản, rừng, đa dạng sinh học và hệ sinh thái tự nhiên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để phát triển đất nước.

Năm 1989, Việt Nam xuất khẩu lô gạo đầu tiên, mở ra kỷ nguyên mới cho thương mại nông sản và đến nay Việt Nam luôn là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Cùng với đó, các ngành hàng chiến lược như cà phê, hồ tiêu, điều, rau quả, chè, cao su, gỗ, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp hình thành vùng chuyên canh quy mô lớn, ngành công nghiệp chế biến hiện đại, tạo giá trị gia tăng và việc làm ổn định cho hàng triệu lao động nông thôn. Đồng thời, vấn đề bảo vệ môi trường hướng đến phát triển bền vững đánh dấu bước phát triển mới với sự ra đời của Luật Bảo vệ môi trường (1994), thiết lập trụ cột Môi trường trong tam giác phát triển Kinh tế - Xã hội - Môi trường, vì mục tiêu hài hòa, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Ngành Nông nghiệp và Môi trường đóng vai trò tiên phong trong công cuộc cải cách của đất nước

Ngành Nông nghiệp và Môi trường đóng vai trò tiên phong trong công cuộc cải cách của đất nước. Những thành công của cải cách đổi mới trong nông nghiệp là nền tảng quan trọng cho thực hiện đổi mới toàn bộ nền kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trải qua gần 40 năm đổi mới, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã không ngừng phát triển và thể hiện là trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế, nhất là trong những giai đoạn đất nước khó khăn, đồng thời thông qua việc góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong khu vực và trên thế giới đã củng cố và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Việt Nam cũng đang tiên phong trong một số cam kết toàn cầu về môi trường với mục tiêu Net Zero 2050.

Đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc sản xuất và xuất khẩu nông sản trên thế giới. Tính cả trên quy mô xuất khẩu và GDP thì ngành nông nghiệp Việt Nam đứng trong nhóm 20 quốc gia hàng đầu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đứng nhóm dẫn đầu như: lúa gạo, cà phê, tiêu, điều, thủy sản, lâm nghiệp, trái cây… Nông sản Việt Nam đã chinh phục được các thị trường khó tính nhất và có mặt ở 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu nông sản mang về thặng dư thương mại lớn cho toàn nền kinh tế. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt 62,5 tỷ USD, dự kiến năm 2025 có thể đạt gần 70 USD.

Ngành nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào tạo việc làm, nâng cao thu nhập, đời sống người nông dân và dân cư nông thôn, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Diện mạo nông thôn, đời sống dân cư nông thôn không ngừng được cải thiện. Nông thôn không chỉ là không gian sinh sống mà còn là địa bàn kinh tế quan trọng, là nơi gìn giữ văn hóa, bản sắc dân tộc và là điểm tựa quan trọng của quốc gia trong những cuộc khủng hoảng, như trong đại dịch Covid-19 vừa qua. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã đạt được những thành tựu mang tính lịch sử. Đến giữa năm 2025, 79,3% số xã đạt chuẩn, 24 tỉnh đạt 100% số xã nông thôn mới; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 55 triệu đồng/năm; tỷ lệ hộ nghèo còn 1,93%. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,03% (vượt kế hoạch 42%); 92,3% khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung (vượt kế hoạch 92%).

Cùng với các kết quả về sản xuất và thương mại, nhiều lĩnh vực phát triển mới đã hình thành và mở rộng, phản ánh xu thế chuyển đổi mạnh mẽ sang nền nông nghiệp xanh, thông minh và bền vững. Dịch vụ - du lịch nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp carbon thấp, kinh tế tuần hoàn và chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) gắn với bản sắc địa phương được triển khai sâu rộng, tạo thêm động lực tăng trưởng, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản Việt trên thị trường quốc tế.

Song hành với nông nghiệp, các lĩnh vực quản lý tài nguyên và môi trường phát triển mạnh mẽ, hình thành nền tảng thể chế và khoa học cho phát triển bền vững: quản lý đất đai thống nhất từ Trung ương đến địa phương; điều tra - đo đạc - bản đồ quốc gia được hoàn thiện; khai thác và bảo vệ tài nguyên nước, khoáng sản, rừng, biển và môi trường sinh thái từng bước được luật hóa; khí tượng thủy văn ngày càng giữ vai trò quan trọng trong dự báo thiên tai, phục vụ hiệu quả sản xuất và đời sống.

Sự hòa quyện giữa nông nghiệp, môi trường và con người đã tạo nên một cấu trúc phát triển của Việt Nam

Sự hòa quyện giữa nông nghiệp, môi trường và con người đã tạo nên một cấu trúc phát triển của Việt Nam, vừa khai thác, vừa gìn giữ; vừa thúc đẩy tăng trưởng, vừa bồi đắp phúc lợi xã hội. Không chỉ là trụ đỡ về kinh tế, nông nghiệp và môi trường còn là trụ đỡ tinh thần, văn hóa, bảo đảm an ninh lương thực, an ninh môi trường và an ninh xã hội. Sự hội tụ giữa cải cách thể chế nông nghiệp và hệ thống quản lý tài nguyên, môi trường hiện đại đã tạo nền tảng vững chắc để đất nước bước vào giai đoạn phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, phát thải thấp và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Bài học kinh nghiệm

Từ những thành tựu mang tính lịch sử của ngành nông nghiệp và môi trường trong 80 năm qua, có thể đúc rút ra nhiều bài học quý giá.

Thứ nhất, sự lãnh đạo toàn diện và những cải cách thể chế đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành nông nghiệp và môi trường nói riêng. Thành tựu nhiều năm qua là kết quả của những chủ trương, đường lối, quyết sách đúng đắn, sáng tạo của Đảng ở từng thời kỳ phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế thời đại; là sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với sự phát triển của ngành. Đó còn là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ, kế thừa, đúc rút kinh nghiệm và sáng tạo qua nhiều nhiệm kỳ với sự đồng thuận, ủng hộ của các địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, cộng đồng quốc tế và nhân dân cả nước đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường.

Thứ hai, những nỗ lực cải cách thể chế đột phá đúng đắn đúng thời điểm và phù hợp với quy luật về kinh tế, vận dụng linh hoạt cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã phát huy nội lực và sức sáng tạo của nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp; thúc đẩy liên kết “bốn nhà”: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nông dân. Nhờ đó, năng suất, chất lượng, giá trị nông sản được nâng cao, tài nguyên được sử dụng hiệu quả hơn, tạo động lực phát triển kinh tế nông thôn đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái.

Thứ ba, phát triển nông nghiệp và môi trường chỉ có thể bền vững khi tôn trọng và thích ứng với quy luật tự nhiên. Tư duy “thuận thiên” được vận dụng sâu rộng, thể hiện trong các mô hình “sống chung với lũ” ở ĐBSCL, trong chuyển đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng - vật nuôi phù hợp từng vùng khí hậu, thổ nhưỡng. Các mô hình nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, nông lâm kết hợp đã góp phần bảo vệ đất đai, nguồn nước, đa dạng sinh học và môi trường sống, thể hiện sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và gìn giữ thiên nhiên.

Thứ tư, sự chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nhanh chóng bắt kịp xu hướng phát triển xanh, bền vững đã mở ra không gian phát triển mới, mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua sản xuất sạch, tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải và đáp ứng tiêu chuẩn môi trường toàn cầu.Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đòi hỏi nông nghiệp Việt Nam không chỉ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, mà còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, lao động và truy xuất nguồn gốc. Phát triển nông nghiệp không thể tách rời quá trình hội nhập toàn cầu, mà phải gắn liền với tinh thần trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường và từ đó giúp khẳng định vị thế của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Thứ năm, sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và phát huy sức mạnh tổng hợp đã tạo đột phá về cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ và xây dựng đội ngũ của ngành. Các công trình thủy lợi, phòng chống thiên tai, giao thông nông thôn được đầu tư đồng bộ đã tạo nền tảng cho sản xuất ổn định và ứng phó với biến đổi khí hậu. Những tiến bộ khoa học công nghệ là yếu tố quan trọng giúp nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi, gia tăng giá trị, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời, việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và ngang tầm nhiệm vụ là yếu tố quyết định đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp và môi trường.

Một bước ngoặt mang tính lịch sử là việc hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường theo Nghị định số 35/2025/NĐ-CP của Chính phủ thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Quyết sách chiến lược ấy kiến tạo một thể chế quản trị tổng hợp, thống nhất cho các lĩnh vực đất, nước, rừng, biển, khoáng sản và khí hậu, hướng tới phát triển bền vững toàn diện. Từ đây, đất đai và đo đạc bản đồ, địa chất và khoáng sản, tài nguyên nước và thủy lợi, khí tượng và thủy văn, môi trường và đa dạng sinh học, biển và hải đảo được kết nối chặt chẽ với nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, chăn nuôi, chế biến và phát triển nông thôn; hình thành một hệ sinh thái quản trị tích hợp cấp quốc gia, vận hành theo tư duy hệ sinh thái, liên kết vùng và quản lý tổng hợp nông nghiệp - tài nguyên - môi trường. Việc hợp nhất không chỉ là sắp xếp tổ chức hành chính, mà còn là chuyển biến căn bản trong tư duy phát triển: từ quản lý đơn ngành sang quản trị theo không gian sinh thái, đặt con người và thiên nhiên ở trung tâm của mọi chính sách. Đây chính là bước chuyển quan trọng hướng tới mô hình phát triển cân bằng giữa kinh tế và môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng, an sinh và bền vững sinh thái, tạo nền tảng cho đất nước tiến tới mục tiêu phát triển xanh và cam kết Net Zero 2050.

Định hướng tương lai

Trong suốt 80 năm qua, ngành Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam đã cùng dân tộc đi qua những thời khắc sinh tử của lịch sử. Đến hôm nay, trong kỷ nguyên biến đổi khí hậu, khi nhân loại phải đối diện những giới hạn của nguồn lực tự nhiên, ngành tiếp tục sứ mệnh tiên phong trong kiến tạo nền kinh tế xanh, sinh thái và nhân văn, nơi con người phát triển trong sự hài hòa với thiên nhiên, và thiên nhiên trở thành không gian sống, sáng tạo, sinh kế và bản sắc của mỗi người dân.

Trong giai đoạn phát triển mới, ngành xác định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển”. Trên nền tảng thể chế quản trị tổng hợp, Nông nghiệp và Môi trường sẽ trở thành một hệ sinh thái vận hành hài hòa, nơi mọi nguồn lực được khơi thông, mọi chính sách đều hướng tới con người và thiên nhiên, mọi hành động đều vì tương lai xanh của đất nước.

Ngành Nông nghiệp và môi trường xác định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đó là: "Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển"

Ngành chuyển mạnh từ tư duy quản lý đơn ngành sang tư duy quản trị tổng hợp, lấy không gian sinh thái và liên kết vùng làm nền tảng phát triển, kết nối chặt chẽ giữa đất - nước - rừng - biển - khoáng sản - khí hậu và các lĩnh vực sản xuất, chế biến, xây dựng nông thôn mới. Quan điểm phát triển nông nghiệp và môi trường trong thời kỳ mới khẳng định: nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố gắn bó hữu cơ, có vai trò trọng yếu trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát triển kinh tế tập thể phải đảm bảo hài hòa giữa các ngành, vùng, lĩnh vực, gắn chặt với định hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức.

Việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên phải hiệu quả, hợp lý, tiết kiệm và đa mục tiêu, coi đây là nền tảng của phát triển bền vững, là tiền đề hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ trung tâm. Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là nội dung trọng yếu của phát triển, lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm trung tâm, kiên định nguyên tắc không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Toàn ngành chuyển mạnh từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát các nguồn ô nhiễm, song song với khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và phục hồi hệ sinh thái.

Ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai được xác định là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân, hướng đến mục tiêu trung hòa carbon, đóng góp hiệu quả cho phát triển bền vững đất nước và nỗ lực toàn cầu giảm phát thải khí nhà kính. Trong đó, quản lý tổng hợp, bền vững tài nguyên, môi trường biển và hải đảo được xem là hướng đi chiến lược, thúc đẩy phát triển kinh tế biển xanh, tuần hoàn, công nghệ cao, gia tăng tỷ trọng kinh tế nông nghiệp biển trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời bảo vệ hệ sinh thái và thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu.

Như vậy, nông nghiệp và môi trường không chỉ là hai lĩnh vực đồng hành, mà còn là hai trụ cột chiến lược, cùng tạo nên nền tảng sinh thái, kinh tế vững chắc cho phát triển bền vững của đất nước hôm nay và mai sau.

Trong giai đoạn tới, ngành Nông nghiệp và Môi trường tập trung vào những nhiệm vụ sau:

Tiếp tục tái cơ cấu ngành nông nghiệp hiệu quả, bền vững, xây dựng nền nông nghiệp xanh, sinh thái, tuần hoàn. Phát triển các vùng sản xuất hàng hoá lớn, chất lượng và giá trị gia tăng cao, gắn với chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên biển để khai thác, sử dụng hiệu quả không gian biển. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong nông nghiệp. Phát triển các hình thức tổ chức và liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp; mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, xây dựng các chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm, thương hiệu nông sản quốc gia.

Tiếp tục tái cơ cấu ngành nông nghiệp hiệu quả bền vững, xây dựng nền nông nghiệp xanh, sinh thái, tuần hoàn

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn bền vững. Phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp. Tập trung xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nông thôn, nhất là người nông dân. Thực hiện tốt công tác giảm nghèo, phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2030 cơ bản không còn hộ nghèo. Bảo đảm an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng cho người dân, nhất là các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Tăng cường kiểm soát, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.

Hoàn thiện đồng bộ pháp luật, cơ chế, chính sách, quy hoạch về quản lý sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học, duy trì cân bằng sinh thái. Thực hiện chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản quan trọng, nhất là tài nguyên biển, đất hiếm.

Chủ động triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp sẵn sàng ứng phó với các loại hình thiên tai và ô nhiễm môi trường. Chú trọng đầu tư phát triển các công trình bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Khắc phục cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở các đô thị lớn, làng nghề, đặc biệt là môi trường không khí ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Bảo vệ, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái đất ngập nước, hệ sinh thái biển, các khu bảo tồn thiên nhiên; bảo vệ nghiêm ngặt các loài động vật hoang dã, quý hiếm.

Ngành cũng xác định bốn đột phá chiến lược làm động lực xuyên suốt cho giai đoạn 10 năm tới:

Thứ nhất, Đột phá về thể chế - chính sách nhằm khơi thông nguồn lực phát triển. Hệ thống pháp luật sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đồng bộ, hiện đại, minh bạch và có tính dự báo cao,bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, giữa quyền lợi của người dân, doanh nghiệp và lợi ích quốc gia. Công tác quy hoạch được tích hợp theo lưu vực, vùng sinh thái, gắn với chuyển đổi số, dữ liệu mở và phân cấp - phân quyền mạnh mẽ, hướng tới mô hình quản trị hiệu quả, linh hoạt, minh bạch và trách nhiệm.

Thứ hai, Đột phá về khoa học - công nghệ và chuyển đổi số, coi đây là động lực then chốt của phát triển ngành. Đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và công nghệ cảm biến trong quản lý tài nguyên, cảnh báo thiên tai, dự báo khí hậu, và giám sát môi trường. Cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp và môi trường được xây dựng đồng bộ, kết nối hàng nghìn trạm quan trắc trên toàn quốc, hỗ trợ điều hành sản xuất, quản lý rủi ro và hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu thực. Nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp chính xác, nông nghiệp sinh học và năng lượng tái tạo được phát triển song song, hướng đến mô hình sản xuất thông minh, tiết kiệm tài nguyên và phát thải thấp.

Thứ ba, Đột phá về đầu tư cơ sở hạ tầng để phục vụ nền nông nghiệp sinh thái, xanh, đồng thời nâng tầm quản trị hiệu quả về tài nguyên và môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngành sẽ ưu tiên đầu tư các hệ thống thủy lợi đa mục tiêu, hồ chứa nước tái tạo, công trình ứng phó xâm nhập mặn, sạt lở và ngập úng, đồng thời phát triển các khu nông nghiệp sinh thái, khu công nghiệp carbon thấp, cảng biển xanh, logistic bền vững và khu bảo tồn thiên nhiên liên kết cộng đồng. Mọi hoạt động sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ đều hướng tới vòng tuần hoàn khép kín, giảm thiểu rác thải, tái chế phụ phẩm, tận dụng năng lượng sinh học và tài nguyên tái tạo, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích kinh tế và giá trị sinh thái.

Thứ tư, Đột phá về phát triển nguồn nhân lực và hợp tác quốc tế - yếu tố then chốt quyết định chiều sâu và tầm cao của phát triển. Ngành sẽ tập trung đào tạo đội ngũ nông dân tri thức, đội ngũ cán bộ, chuyên gia, kỹ sư, nhà khoa học đầu ngành, lực lượng doanh nhân có năng lực hội nhập, sáng tạo và quản trị hiện đại; xây dựng văn hóa công vụ chuyên nghiệp, liêm chính, phục vụ; đồng thời mở rộng hợp tác với các đối tác quốc tế trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, tài chính khí hậu, phát triển thị trường carbon, kinh tế biển xanh và năng lượng tái tạo. Việt Nam phấn đấu trở thành trung tâm kết nối khu vực về chuyển đổi xanh, đóng góp tích cực vào nỗ lực toàn cầu ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Tầm nhìn chiến lược của ngành Nông nghiệp và Môi trường không chỉ dừng ở những con số tăng trưởng, mà hướng đến một mô hình phát triển mới - kinh tế xanh, xã hội nhân văn, quốc gia tự cường. Trong mô hình ấy, tài nguyên được tái tạo, môi trường được gìn giữ, con người được thụ hưởng; nông nghiệp, nông thôn trở thành không gian của sáng tạo, văn hóa và sinh kế. Mỗi hạt giống được gieo xuống đất, mỗi giọt nước được giữ lại, mỗi cánh rừng được hồi sinh, mỗi dòng sông được bảo vệ - đều là biểu tượng của tình yêu đất nước, của trách nhiệm với tương lai, của bản lĩnh Việt Nam.

Bước vào chặng đường phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục nỗ lực đổi mới, sáng tạo, tiên phong trong hành trình phát triển bền vững để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và hướng tới năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, hiện thực hóa tầm nhìn về một Việt Nam giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc.

Nguồn: Theo báo Nông nghiệp và Môi trường 

 

 


Các tin Tin tức - Sự kiện khác:

 

Ngành Nông nghiệp và Môi trường trước Sứ mệnh lịch sử (17/11/2025)
Hội nghị toàn thể Công đoàn cơ sở Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ lần thứ V nhiệm kỳ 2025-2030 (5/11/2025)
HỘI THẢO KHOA HỌC GÓP Ý BẢN MÔ TẢ ĐẶC ĐIỂM ĐẶC TRƯNG CỦA GIỐNG NGÔ NẾP NƯƠNG TÍM MÔNG BẢN ĐỊA KỲ SƠN (12/9/2025)
Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Quyết liệt giải ngân 100% vốn đầu tư công, tạo động lực tăng trưởng thực chất (5/8/2025)
Nông nghiệp và Môi trường phải song hành, dẫn dắt phát triển bền vững (4/8/2025)
HỘI KHOA HỌC PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM TỔ CHỨC THÀNH CÔNG ĐẠI HỘI NHIỆM KỲ 2025 – 2030 (1/8/2025)
HỢP TÁC PHÁT TRIỂN MÍA ĐƯỜNG GIỮA VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ TỈNH VÂN NAM (TRUNG QUỐC) (25/7/2025)
BỔ NHIỆM HAI PHÓ GIÁM ĐỐC VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM (5/8/2025)
Hợp nhất tạo sức bật mới (25/7/2025)
CẢ NƯỚC CÓ 121 CÔNG TY NÔNG NGHIỆP ĐƯỢC NHÀ NƯỚC GIAO, CHO THUÊ 478.039HA ĐẤT (28/7/2025)
Giới thiệu chung
Săp xếp lại các phòng ban phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Viện và yêu cầu theo đề án “ Kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giảm biên chế, đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của VAAS” giai đoạn 2021-2025 và giai đoạn 2026- 2030 theo hướng gọn về tổ chức, mạnh về chuyên môn, nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Liên kết nhanh
Bộ đếm truy cập
Hôm nay: 2492
Tất cả: 5758054
 
Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ
Địa chỉ: Số 586 đường Nguyễn Trường Tộ, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
ĐT: 02383 514625 - Email: asincv@gmail.com